Ông Trương Minh Giảng (chữ Hán: 張明講 ?-184) là một danh thần nhà Nguyễn. Ông được đánh giá là một người "văn võ song toàn", là công thần bậc nhất của nhà Nguyễn, vừa là một võ tướng vừa là một sử gia, từng giữ chức Tổng tài Quốc sử giám. Năm sinh của ông không rõ, chỉ biết ông là người làng Hạnh Thông, huyện Bình Dương, trấn Gia Định. Thân phụ của ông là Lễ bộ Thượng thư Trương Minh Thành.
Đại học sĩ Trương Quốc Dụng (1797–1864) là đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Một trí thức lớn trưởng thành từ khoa bảng, tài kiêm văn võ, được sử sách ghi là một danh tướng, nhà Thiên văn học, nhà văn Việt Nam, nhà sử học, nhà cải cách, đặc biệt là một tấm gương đạo đức sáng ngời. Đông các đại học sĩ Trương Quốc Dụng, cây đại thụ trí thứctriều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người chủ biên bộ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, là tác giả biên soạn bộ lịch Việt Nam thời Nguyễn ...
Trương Hán Siêu (?-1354). Quan chức; nhà văn; tự là Thăng Phủ, người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là xã Phúc Am, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình).
Trương Vân Lĩnh tên khai sinh là Trương Văn Thanh, sinh năm 1902 tại làng Tuỵ Anh, tổng Vân Trình (nay xã Nghi Phương), huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Tuỵ Anh là một làng Thiên chúa giáo toàn tòng thuộc họ công giáo Mỹ Yên, nằm cạnh Xã Đoài, trung tâm Thiên chúa giáo của 3 tỉnh Nghệ An -Hà Tĩnh và Quảng Bình.
Ngự sử Đại phu Trương Đỗ nguyên quán làng Phù Đới, huyện Đồng Lại (nay là Thôn Phù Tải, Thanh Giang, Thanh Miện, Hải Dương) đỗ Tiến sĩ và làm quan vào nửa sau thế kỷ XIV.
Trương Vĩnh Ký (6/12/1837 - 1/9/1898) khi mới sinh có tên là Trương Chánh Ký, tự Sĩ Tải, theo đạo Công giáo nên có tên thánh: Jean - Baptiste Pétrus, nên còn gọi tắt là Pétrus Ký. Ông là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn, nhà ngôn ngữ học và là nhà bác học Việt Nam, thông thạo 26 ngôn ngữ, được ghi trong Bách khoa Tự điển Larousse và là một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ 19. Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật.
Trương Hống, Trương Hát người làng Vân Mẫu, huyện Quế Dương (sau là Võ Giàng) quận Vũ Ninh, xứ Kinh Bắc (nay là thôn Vân Mẫu, xã Vân Dương, huyện Quế Võ), là học trò của Tiên sinh Lã Thị người hương Chu Minh, lộ Bắc Giang (tức xã Hương Mạc, huyện Từ Sơn ngày nay).
Trương Hanh (chữ Hán: 張亨, ?-?), là người đỗ đệ nhất giáp kỳ thi Thái học sinh năm Kiến Trung thứ 8 (Nhâm Thìn, 1232)[1][2], đời vua Trần Thái Tông
Vương triều Tây Sơn do 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lập nên tuy tồn tại không lâu nhưng đã làm rạng rỡ trang sử huy hoàng dân tộc bằng những công cuộc cải cách kinh tế, giáo dục, lẫy lừng nhất là chiến thắng 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh trong dịp Tết xuân Kỷ Dậu 1789. Với tinh thần xây dựng và bảo vệ nền độc lập tự chủ dân tôc, vì quốc thái dân an, các tướng lĩnh họ Trương đã có những cống hiến lớn Đại Việt thời Tây Sơn. Xin trân trọng giới thiệu một số nhân vật tiêu biểu:
Trương Gia Mô (1866-1929) hiệu Cúc Nông, tên tự lúc đầu là Sư Thánh, sau đổi là Sư Quản, biệt hiệu Hoài Huyền Tử, khi làm quan ở Huế, còn được gọi là Nghè Mô; là sĩ phu yêu nước, quan triều Nguyễn, và là nhà thơ Việt Nam ở những năm đầu thế kỷ 20.